Chăn trâu nhà người
Mới bước vào đợt giảm tô cải
cách ruộng đất, nhà Tám đã bị bao vây. Lúa khoai gia đình Tám trồng bị thu hết
sạch. Cả nhà không có cái ăn. Mẹ kế Tám phải lặn lội đi vay. Vay từng bơ gạo,
từng rổ khoai. Cha Tám cũng đi vay. Sau này ông cụ mất, nhiều người còn nhắc
lại món nợ, nhưng họ thương cha Tám, chỉ nhắc cho biết. Mỗi bữa ăn anh em Tám
chỉ được khoảng dăm ba củ khoai. Cha Tám cũng ăn khoai. Họa hoằn lắm mới có tí
gạo thì dành cho cha Tám và em út. Đói quá, ai cũng xanh xao vàng vọt, chết đến
nơi rồi. Tám thương cha, thương anh chị, thương em, nhưng không làm gì để giúp
gia đình được. Cuối cùng Tám quyết định đi ở làm thuê.
Một hôm Tám lên chợ Mới ở thôn Minh Lệ, cách
nhà Tám năm cây số, hỏi xem có ai thuê ở không. Tám được biết ở Phú Mỹ, có thể
có người cần thuê trẻ con ở chăn trâu. Tám gặp cô Tư, vốn là người hàng xóm lấy
chồng ở Phú Mỹ, đang bán sắn ở chợ Mới. Cô ấy bảo cứ vào ở tạm nhà cô rồi tìm
người thuê. Tám theo cô Tư, lên đò dọc, vào Phú Mỹ. Tám lên đò nhưng cứ dán mắt
về phía chợ Mới, về phía xóm làng mờ xa kia. Tám bắt đầu cảm thấy nhớ nhà.
Không biết bao giờ cho hết cơ cực để Tám trở về với gia đình, với người cha
thân yêu.
Đến Phú Mỹ, Tám ở tạm nhà cô
Tư. Vài hôm sau có người thuê. Đó là anh Khản, con rể ông Ân. Anh Khản mới lấy
vợ, ở riêng, mới có một đứa bé, neo người nên phải thuê đứa ở. Công việc của Tám
là chăn trâu và dắt trâu kéo gỗ từ rừng sâu về nhà. Từ đó Tám không có thông
tin gì ở nhà nữa. Một hôm có anh Hoàng, em anh Khản đến chơi, hỏi hoàn cảnh nhà
Tám. Anh ấy hỏi, ông cụ có bị giam không. Tám nói không. Anh nói, đấy là mới
giảm tô thôi, tiếp theo đây họ làm mạnh lắm. Anh Hoàng ở ngoài Hà Tĩnh mới về
nên anh biết.
Tám bỏ đi, cả nhà đi tìm.
Một hôm Tám thấy mẹ kế đến nhà anh Khản, không biết làm sao bà biết Tám ở đây.
Bà cho biết cha Tám đã bị bắt giam. Tám thương cha, Tám khóc.
Núi cao gặp hổ
Như thường lệ, hôm đó Tám
dắt trâu theo ông chủ vào rừng sâu. Sau khi ông chủ và mấy người lớn đốn xong
gỗ, chuẩn bị dây đeo ách cho trâu, Tám dắt trâu đến quàng ách vào để kéo gỗ về.
Giữa rừng đại ngàn, đi sâu khoảng vài ba cây số là có cây cao to vài chục mét,
có cây người ôm không xuể. Cây gỗ Tám sắp cho trâu kéo, dài hơn chục mét, đường
kính khoảng hơn ba gang tay người lớn.
Tám dắt trâu đi theo đường
kéo gỗ. Đường này do kéo gỗ lâu ngày và do nước mưa xói nên bị bào mòn xuống
thành cái rãnh, sâu ngang vai người. Tám cầm dây thừng buộc mũi trâu đi trước,
đằng sau là con trâu kéo khúc gỗ to dài. Mỗi khi qua chỗ dốc, khúc gỗ lăn bịch
bịch theo chân trâu. Đi được một quãng thì đến khu vực nhiều bụi rậm. Đang đi,
bỗng nhiên Tám nghe tiếng “uỵch” một cái rồi ngất luôn, không còn biết gì nữa.
Khi Tám tĩnh lại thấy mình đang nằm trên bãi cỏ, máu tràn đầy mặt mũi, quần áo
bị chà xát rách bươm và bê bết máu. Toàn thân Tám bị bong cợp hết da, máu ứa
đầy người. Chung quanh là mấy người lớn. Họ lấy thuốc lào và lông d. đắp vào
vết lõm trên trán Tám. Tám sờ lên trán mới biết trán mình bị móp xuống, một bên
vết thương xương nhô ra. Con trâu đã giẫm lên đầu Tám. Mấy người lớn nói, thủng
trán rồi. Họ vội vàng cõng Tám về nhà. Sau đó Tám lại ngất vì máu ra quá nhiều.
Mọi người cứ nghĩ Tám chết rồi. Sáng hôm sau Tám mới tỉnh dậy, sờ lại vết
thương mới biết trán bị móp, xương trán bị biến dạng, một khối xương nhô ra.
Thỉnh thoảng ông chủ lại sờ người Tám rồi bôi đủ thứ vào trán mà ông cho là
thuốc: thuốc lào, lông cu ly, lá cây rừng, lông d...
Ngày hôm sau Tám nghe người
lớn kể lại, lúc Tám dắt trâu qua chỗ rậm, họ cách xa Tám, quãng này rất vắng.
Tự nhiên họ nghe có tiếng sột soạt mạnh gần chỗ Tám dắt trâu, rồi tiếng trâu và
gỗ lao đi huỵch huỵch. Họ chạy tới, thấy Tám nằm giữa vũng máu, người bị kẹt
giữa đường rãnh. Thì ra lúc trâu qua đường vắng, một con hổ đã liều mạng xông ra,
trâu vùng lên, nó bỏ chạy, trâu lao về phía trước, đạp lên đầu Tám, tiếp theo
là khúc gỗ nặng hàng tấn chà qua người Tám. Cả thi thể Tám vo viên lại.
Mấy ngày sau vết thương rất
đau, ngày một thêm đau, nhưng Tám thấy đầu óc bình thường, không có triệu chứng
xấu gì về tư duy và trí nhớ. Mấy ngày sau vết thương bắt đầu se dần. Từ đấy Tám
cứ xem như mình đã một lần chết. Sau này Tám còn gặp nhiều chuyện nguy hiểm
tính mạng nữa, nhưng rồi qua, nhiều lúc do sự nhanh trí, nhưng đa phần là do
may mắn. Tám có cảm giác, có một vị thần linh nào đó, đang ngày đêm phù hộ cho Tám.
Tám thầm cản ơn ngài.
Sau khoảng một tuần, Tám lại
đi chăn trâu như thường lệ. Thấy Tám, bọn trẻ cùng chăn trâu xúm lại. Chúng nó
bảo, nghe nói mày bị lòi óc ra mà không chết. Đứa thì bảo, nghe nói khi mày bị
trâu giẫm người ta thấy óc mày lõng bõng, người ta phải lấy áo bịt lại để khỏi
trào ra. Có đứa nói như một cụ già: Số mày hổ vồ trâu dẫm mà không chết, chắc
rồi sống lâu lắm. Mười ba tuổi đầu, phải nếm cái đắng cay nhất của cuộc sống.
Sau này, nhờ có chí học hành, Tám có bằng cấp, có vài cống hiến có giá trị cho
đời, nhưng cứ nghĩ đến những ngày gian khổ đó, Tám càng căm hờn bọn lãnh đạo.
Giành lại nhà
Trong cải cách ruộng đất gia
đình Tám bị chiếm hết nhà cửa. Mấy anh chị em Tám bị đuổi ra một cái chòi tranh
dột nát. Không giường chiếu, không nồi niêu bát đũa. Áo quần rách bươm, lạnh
thấu xương, đêm thường không ngủ được, phải nhặt lá và que khô nhóm lửa sưởi.
Không còn gì để ăn. Hai anh Tám phải vào tận rừng nhặt hạt dẻ hoặc gánh củi bán.
Bố mẹ Tám có hai cái nhà,
một cái nhà lớn và một cái nhà bếp rộng. Nhà lớn ba gian hai hồi, kiểu cổ, cột
lim, các vì kèo đều chạm trổ, lợp ngói nam. Nhà lớn vẫn nguyên còn nhà ngang bị
chia cho nông dân Trọng, đã bị dỡ mang về xóm dưới. Nền đất nhà ngang còn lại chúng
cho mẹ con mụ Ròn dựng nhà. Nhà nậy có hai hộ ở: Vợ chồng lão Tấu và vợ chồng lão
Thường. Lão Tấu là bộ đội phục viên. Vợ lão là con một bà làm nghề buôn thúng bán
mẹt ở xóm trên. Lão Thường con ông Thùy. Bố ông Thùy là con nuôi cố nội Tám.
Sau khi “sửa sai” một thời
gian, hai anh lớn của Tám đều ra Hà Nội học. Ở nhà, chỉ còn Tám, mới hơn mười
ba tuổi, em út tám tuổi và chị Năm. Không còn ai làm chỗ dựa, mọi việc lúc đó Tám
tự quyết định tất cả. Chị Năm lớn, nhưng con gái, với lại chị cũng buồn vì phải
xa con. Đã vào thời kỳ sữa sai, dư luận thương tiếc cha Tám ngày một xôn xao
trong thôn xóm. Trước những dư luận đó, Tám hỏi ý kiến của Chị Năm, thím Ấm và
một vài nhà thân tín. Họ đều đồng ý với quyết định của Tám là giành lại nhà.
Tám chuẩn bị một cái dao bầu
đã mài sáng loáng. Nhân hôm hai lão đàn ông đi vắng, Tám vác dao xông sang, đi
sau Tám là chị Năm, ôm theo một đống áo quần, chăn chiếu. Vào nhà, Tám đứng
ngay ở gian giữa, cúi mặt vào trong, vái ba vái rồi quay mặt ra cầm dao bầu giương
cao, như sẵn sàng xông trận. Chị Năm để chiếc chiếu xuống nền nhà, ngay gian
giữa rồi trãi ra. Chị quỳ xuống quay đầu vào phía trong nhà vái như Tám. Mặt Tám
đỏ lừ, giá như lúc đó có kẻ nào ngăn cản, Tám sẵn sàng chém. Tám cứ đứng như
thế. Chị Năm lần lượt mang các thứ từ bên nhà thím Ấm sang: nồi niêu, bát
đũa.... Tối đó Chị Năm, Tám và em út ở gian giữa. Hai gia đình nông dân ở hai
bên. Mấy hôm đầu hai gia đình Tấu và Thường có vẻ khó chịu, nhưng sau đó xịu
dần và đối xử bình thường với chị em Tám. Khoảng một tháng sau thì gia đình Tấu
rút lui. Lúc rút Tấu lấy luôn cái rương, vốn là của nhà Tám từ trước. Tám sơ ý
không giử lại.
Sau khi gia đình Tấu rút
lui, gia đình Thường cũng bắt đầu tính kế rút. Sau hơn hai tháng thì chị em Tám
lấy lại hoàn toàn nhà lớn. Sau khi lấy lại được nhà lớn rồi, Tám định đuổi mẹ
con mụ Ròn. Nhưng mẹ con mụ không còn nơi nào để ở. Cứ thế mụ lần lữa mãi. Hơn
nữa, mụ có chút bà con, nên Tám không nỡ mạnh tay. Sau khi có toàn bộ nhà, mẹ kế Tám
cũng về. Cả nhà quét dọn, mời ông Cửu lên làm lễ, mời ông bà về. Một thời gian sau
chị Tư về quê. Chồng chị ấy có nói, sao không để họ trả, mà lại đi giành. Tám rất bực, vì, may
mà Tám giành lại nhà, nếu không nhà cũng mất hoặc bị phá hỏng hết.